"Phù thủy đêm" (
tiếng Đức: die Nachthexen;
tiếng Nga: Ночные ведьмы, Nochnye Vedmy) là biệt danh mà các binh sĩ
Đức Quốc Xã đặt cho các nữ phi công quân sự của
Trung đoàn không quân ném bom đêm 588 (
tiếng Nga: 588-й ночной легкобомбардировочный авиационный полк), sau này được gọi là
Trung đoàn không quân Cận vệ ném bom đêm số 46 (
tiếng Nga: 46-й гвардейский ночной бомбардировочный авиационный полк, viết tắt là 46-й гвардейский нбап),
[1] thuộc
Không quân Xô viết trong
Thế chiến thứ hai. Biệt danh trên xuất phát từ chiến thuật tấn công đặc biệt của các nữ phi công thuộc trung đoàn này là sử dụng máy bay hạng nhẹ
Polikarpov Po-2, bay đêm ở độ cao thấp, khi đến gần mục tiêu thì ngắt động cơ và bay ở chế độ lượn nhằm tránh bị lộ vị trí bởi tiếng động cơ trước khi ném bom. Vì vậy, trước khi bị tấn công, quân Đức chỉ nghe được tiếng gió lướt qua thân máy bay, vốn có một khung chính bằng gỗ và phủ vải, tạo nên tiếng lật phật tương tự tiếng chổi quét. Do đó, những người lính Đức mới đặt biệt danh cho các nữ phi công này là "Phù thủy đêm"
[2][3], giống như hình tượng các
phù thủy cưỡi chổi bay trong đêm trong các
truyện cổ tích.
Trung đoàn không quân ném bom đêm 588 (từ sau 1943 mang tên
Trung đoàn không quân Cận vệ ném bom đêm số 46) là một trong 3 trung đoàn không quân nữ của Liên Xô chiến đấu trong
Thế chiến thứ hai.
[4] Không như 2 trung đoàn còn lại, Trung đoàn vẫn giữ đội hình toàn nữ (gồm cả các chỉ huy, phi công, hoa tiêu, thợ máy) cho đến tận hết chiến tranh. Sau chiến tranh, các trung đoàn không quân nữ đều được giải thể. Hai mươi ba thành viên của Trung đoàn nhận được danh hiệu
Anh hùng Liên Xô, hai người là
Anh hùng Liên bang Nga và một người là
Anh hùng Kazakhstan.